Trao đổi kỹ thuật và văn hóa Mậu dịch Nanban

Tanegashima (種子島(銃)) (‘’Chủng Tử Đảo (súng)’’)

Súng TanegashimaSúng hỏa mai Nhật Bản thời kỳ Edo (Tanegasima).

Một trong những thứ người Nhật quan tâm là súng của Bồ Đảo Nha. Ba người châu Âu đầu tiên đến Nhật Bản là những người Bồ Đào Nha (Fernão Mendes Pinto), đi trên một con tàu Trung Quốc đến phía Nam đảo Tanegashima, ở đó họ giới thiệu vũ khí của mình với những người họ gặp. Kể từ khi súng được truyền vào Tanegashima, súng hỏa mai ở Nhật cơ bản được gọi là Tanegashima. Vào thời đó, Nhật Bản đang chìm trong nội chiếm (thời kỳ Sengoku). Nói đúng ra, người Nhật đã quen với thuốc súng (được phát mình và du nhập từ Trung Hoa), và đã sử dụng loại súng đơn giản của Trung Quốc và đại bác ống gọi là Teppō (鉄砲 "Thiết pháo") từ khoảng 270 năm trước khi người Bồ Đào Nha đến. Tuy vậy, súng của Bồ Đào Nha nhẹ hơn, có bộ điểm hỏa cơ khí và dễ ngắm bắn.

Damiyo nổi tiếng, người gần như đã thống nhất được Nhật Bản, Oda Nobunaga, sử dụng đại trà súng hỏa mai trong trận chiến quyết định Nagashino, được Akira Kurosawa chuyển thể thành bộ phim năm 1980 Kagemusha (Chiến binh bóng đêm).

Trong vòng chưa đầy một năm, thợ đúc kiếm và thợ rèn Nhật Bản đã tái tạo thành công cơ cấu và có thể sản xuất hàng loạt súng. Chỉ trong vòng 50 năm sau đó, ’’’’cho đến cuối thế kỷ 16, súng đã trở nên thông dụng ở Nhật Bản hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới "[cần dẫn nguồn], quân đội của họ trang bị số lượng súng lớn hơn bất kỳ một quân đội cùng thời nào ở châu Âu (Perrin).

Súng đóng vai trò quan trọng trong việc thống nhất Nhật Bản của Toyotomi HideyoshiTokugawa Ieyasu, cũng như những cuộc xâm lược Triều Tiên của Hideyoshi năm 15921597.

Shuinsen (朱印船)

Shuinsen (朱印船) ("Châu ấn thuyền") Nhật Bản năm 1634, kết hợp phong cách vuông châu Âu, buồm hình tam giác và thiết kế đuôi tàu. Con tàu này thường được trang bị 6 đến 8 khẩu đại bác. Bảo tàng khoa học Hải quân Tokyo.Thuyền buồm Nhật Bản đóng năm 1613 San Juan Bautista, ở Ishinomaki, Nhật Bản (bản sao).

Thuyền buồm châu Âu có ảnh hưởng nhất định đến ngành công nghiệp đóng tàu Nhật Bản, và thực sự đã kích thích nhiều chuyến hải hành mạo hiểm của người Nhật.

Mạc phủ thiết lập hệ thống hải thương với các con thuyền có giấy phép gọi là Châu ần thuyền (朱印船), dong buồm trên toàn cõi Đông và Đông Nam Á. Những con tàu này được kết hợp nhiều chi tiết thiết kế thuyền buồm, ví dụ như buồm, bánh lái và bố trí súng. Chúng mang thương nhân và nhà thám hiểm Nhật Bản đến các bến cảng Đông Nam Á, vài người dần có ảnh hưởng nhất định với các sự vụ tại địa phương, ví dụ như nhà thám hiểm Yamada NagamasaSiam, hay sau này trở thành những hình tượng được yêu thích ở Nhật Bản như Tenjiku Tokubei.

Cho đến đầu thế kỷ 17, Mạc phủ đã đóng vài con thuyền hoàn toàn dựa trên thiết kế Nanban, thường với sự trợ giúp của các chuyên gia nước ngoài, ví dụ như thuyền buồm San Juan Batista, hai lần vượt Thái Bình Dương với nhiệm vụ đưa đoàn sứ thần đến Nueva España (Mexico).

Đạo Công giáo ở Nhật Bản

Bài chi tiết: Kirishitan
Bài viết (hoặc đoạn) này hiện đang gây tranh cãi về tính trung lập. Có thể có thảo luận liên quan tại trang thảo luận. Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng thuận trong vấn đề này. (tháng 4 năm 2008)

Sau chuyến viếng thăm của tu sỹ dòng Tên hàng đầu Francis Xavier năm 1549, đạo Công giáo đã phát triển mạnh mẽ như là một tôn giáo quan trọng ở Nhật Bản. Mặc dù sự khoang dung của các "linh mục" phương Tây ban đầu liên quan đến vấn đề thương mại. Công giáo cũng đã có đến 200.000 tín đồ vào cuối thế kỷ 16, chủ yếu là nằm ở phía Nam đảo Kyūshū. Dòng Tên nhận được quyền lực thi hành pháp lý ở thành phố thương mại Nagasaki.

Bàn thờ ơn Chúa Nhật Bản, phong cách Nanban. Cuối thế kỷ 16. Bảo tàng Guimet.

Phản ứng đầu tiên là của kampaku Hideyoshi vào năm 1587, khi ông ban chiếu cấm đạo Công giáo, và ra lệnh trục xuất tất cả các linh mục. Tuy vậy, biện pháp này không được thực thi rốt ráo (chỉ có 3 trên 130 tu sỹ dòng Tên rời Nhật Bản), và các tu sỹ vẫn có thể theo đuổi mục đích của mình. Hideyoshi đã viết rằng:

"1. Nhật Bản là đất nước của Thánh Thần, và với những linh mục đến đây mà giao giảng những phép tắc ma tà, là điều hiểm ác và không thể chấp nhận được...2. Với những linh mục đến Nhật Bản và cải đạo dân chúng nơi đây, thiêu hủy chùa chiền và đền thờ Shinto, đến nay là chuyện chưa bao giờ nghe thấy, chưa bao giờ nhìn thấy… khuấy động lũ hạ dân làm điều phạm thượng loại này đáng bị trừng trị nghiêm khắc." (From Boxer, "The Christian century in Japan")

Ông cũng lo lắng về nạn nô lệ mà đối tượng chủ yếu là phụ nữ Nhật Bản, họ là món hàng buôn bán giữa các daimyo Công giáo và người Bồ Đào Nha Maranos, ước tính đã có khoảng 500.000 người Nhật bị rao bán, chủ yếu là để đổi lấy thuốc súng.[3][4]Phản ững của Hideyoshi với Công giáo mạnh mẽ hơn khi một thuyền buồm bị đắm của Tây Ban Nha mang giáo phái Francis đến Nhật Bản năm 1597. Vụ xử tử 26 người Công giáo (6 tu sĩ Dòng Phanxicô, 17 người mới nhập đạo, và 6 tu sĩ Dòng Tên - do nhầm lẫn) diễn ra Nagasaki ngày 5 tháng 2 năm 1597. Dường như quyết định của Hideyoshi là do lời khích bác của các tu sỹ dòng Tên để tiêu diệt địch thủ của mình, người Tây Ban Nha thông báo với ông rằng các chiến dịch quân sự thường theo sau việc truyền đạo Công giáo. Mặc dù gần 100 nhà thờ bị thiêu hủy, nhưng phần lớn tu sỹ dòng Tên vẫn ở lại Nhật.

Cú đòn cuối cùng của Tokugawa Ieyasu là lệnh cấm ngặt Công giáo năm 1614, dẫn đến những hành động ngấm ngầm của tu sỹ dòng Tên, và sự tham gia của họ vào cuộc nổi dậy của Hideyori (1614-15). Việc đàn áp Công giáo trở nên dữ dội hơn sau cái chết của Ieyasu năm 1616, tra tấn và xử tử khoảng 20.000 người Công giáo (70 người phương Tây, còn lại là người Nhât), khiến 200-300.000 người bỏ đạo. Phản ứng mạnh mẽ cuối cùng của người Công giáo Nhật Bản là cuộc Nổi loạn Shimabara năm 1637. Sau đó, Công giáo Nhật Bản chuyển vào hoạt động ngầm, sử học gọi là Kakure Kirishitan ("Người bí mật theo Công giáo").

Những ảnh hưởng Nanban khác

Nanbandō, áo giáp kiểu phương Tây, thế kỷ 16. Bảo tàng quốc gia Tokyo

Nanban cũng có nhiều ảnh hưởng khác như:

  • Nanbandō (南蛮胴) ("Nam Man Đỗng") dùng để chỉ một loại áo giáp bọc lấy thân người chỉ với một mảnh, thiết kế bắt nguồn từ châu Âu.
  • Nanbanbijutsu (南蛮美術) ("Nam Man Mỹ thuật") dùng để miêu tả chung nghệ thuật Nhật Bản với chủ đề Nanban hay chịu ảnh hưởng của thiết kế Nanban.
  • Nanbanga (南蛮画) ("Nam Man họa") dùng để chỉ các bức tranh do người nước ngoài vẽ, và tạo ra cả một phong cách trong nghệ thuật Nhật Bản (Xem Nghệ thuật Namban và ví dụ tại: hay )
  • Nanbannuri (南蛮塗り) miêu tả kiểu tranh trí sơn mài dưa trên phong cách Bồ Đào Nhà, và là những vật dụng rất được yêu thích từ cuối thế kỷ 16 (Xem ví dụ tại: ).
  • Nanbangashi (南蛮菓子) ("Nam Man quả tử") là các loại kẹo có nguồn gốc từ gia vị Bồ Đào Nhà và Tây Ban Nha, loại kẹo được yêu thích là "Kasutera" (カステラ) được đặt theo tên Castile và "Kompeito" (金平糖 こんぺいとう) được đặt tên theo từ tiếng Bồ Đào Nha "confeito", có nghĩa là kẹo đường. Các loại kẹo của người "Nam Man" vẫn được bày bán trong các siêu thị Nhật Bản cho đến ngày nay.
  • Nanbanji (南蛮寺, "Nam Man tự", Nanbanji?) là nhà thờ Công giáo đầu tiên ở Kyoto. Với sự giúp sức của Oda Nobunaga, linh mục dòng Tên Gnecchi-Soldo Organtino xây dựng hà thờ này năm 1576. 11 năm sau (1587), Nanbanji bị Toyotomi Hideyoshi thiêu hủy. Ngày nay, quả chuông vẫn được giữ gìn, gọi là "Nanbanji-no-kane" (Chuông Nanbanji) tại Đền Shunkoin ở Kyoto.Shunkoin Temple

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Mậu dịch Nanban http://www.shunkoin.com/ http://www.rekihaku.ac.jp/e-rekihaku/122/ http://www.rekihaku.ac.jp/koohoo/journal/no122/byo... http://www.rekihaku.ac.jp/koohoo/journal/no122/byo... http://www.jti.co.jp/Culture/museum/tokubetu/event... http://www.mint.go.jp/eng/event/finaljudge2005.htm... http://www.city.kobe.jp/cityoffice/57/museum/meihi... http://www.euronet.nl/users/artnv/Japart.index.htm... https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Nanban... https://commons.wikimedia.org/wiki/Nanban?uselang=...